Tóm tắt
Nghiên cứu này tập trung vào khái niệm quản trị lợi nhuận cũng như động cơ và kỹ thuật thực hiện quản trị lợi nhuận. Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu dữ liệu tại bàn bàn từ những nguồn tài liệu nghiên cứu trước đó để khái quát những động cơ của các nhà quản lý như động cơ về tiền lương, thưởng; động cơ về việc đáp ứng kỳ vọng của giới phân tích,…bên cạnh đó cũng chỉ ra những kỹ thuật điều chỉnh lợi nhuận dựa trên cơ sở dồn tích và dựa trên các hoạt động phát sinh thực tế.
1. Đặt vấn đề
Trong môi trường kinh doanh ngày nay, sự cạnh tranh gay gắt, áp lực từ cổ đông và yêu cầu từ thị trường đều đặt lên doanh nghiệp một áp lực không nhỏ để đạt được và duy trì lợi nhuận. Tuy nhiên, để làm được điều này, các doanh nghiệp thường phải đối mặt với các vấn đề phức tạp liên quan đến động cơ và cách thức thực hiện quản trị lợi nhuận. Theo Dương Thị Chi (2021), quản trị lợi nhuận là hành vi được các nhà quản lý thực hiện dựa trên các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán, áp dụng một cách linh hoạt các chính sách hoặc các ước tính kế toán nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Theo Nguyễn Hà Linh (2017), điều chỉnh lợi nhuận là hành vi có thể được thực hiện trong hoặc ngoài phạm vi cho phép của các quy định, chuẩn mực, chế độ kế toán nhằm giúp nhà quản trị đạt được các mục tiêu về lợi nhuận thông qua các công cụ, phương pháp kế toán.
Mục đích của nghiên cứu này trước hết là xác định động cơ dẫn đến hành vi quản trị lợi nhuận, sau đó sẽ đi tìm hiểu về các cách thức mà doanh nghiệp thực hiện quản trị lợi nhuận. Việc hiểu rõ về các động cơ đằng sau quản trị lợi nhuận là cực kỳ quan trọng để có cái nhìn sâu sắc về cách mà các quyết định kinh doanh được hình thành và thực hiện, các động cơ này có thể đa dạng và phức tạp. Từ đó nghiên cứu cũng sẽ trả lời câu hỏi về cách thức mà các doanh nghiệp thực hiện quản trị lợi nhuận để đáp ứng các động cơ đợi này.
Việc điều chỉnh lợi nhuận không chỉ ảnh hưởng đến niềm tin và lòng tin của các bên liên quan như cổ đông, nhà đầu tư, công chúng, ngân hàng,… mà còn có thể gây ra hậu quả pháp lý và tài chính nghiêm trọng cho công ty. Chính vì vậy, việc các đối tượng sử dụng thông tin của báo cáo tài chính tìm hiểu động cơ và các kỹ thuật liên quan đến quản trị lợi nhuận là một điều vô cùng quan trọng.
2. Động cơ dẫn đến hành vi quản trị lợi nhuận
2.1. Hợp đồng thù lao cho các nhà quản lý
Trong doanh nghiệp, các nhà quản lý đóng một vai trò quan trong việc điều hành hoạt động kinh doanh. Lương thưởng trả cho các nhà quản lý về sự đóng góp của họ là một yếu tố cần được quan tâm để đảm bảo công ty hoạt động có hiệu quả. Các khoản thù lao được trả thường dựa vào kết quả hoạt động của doanh nghiệp, chính vì vậy không có gì ngạc nhiên khi nhiều nghiên cứu đã tìm ra mối liên hệ giữa quản trị lợi nhuận và thù lao của nhà quản lý. Theo Healy (1999) cho rằng các nhà quản lý có hợp đồng lương thưởng dựa trên thu nhập thường có xu hướng áp dụng điều chỉnh tăng lợi nhuận. Chan và Chen (2012) tuyên bố rằng các nhà quản lý quan tâm đến việc duy trì tăng trưởng thu nhập vì ảnh hưởng của chúng đến giá cổ phiếu và vì khoản thù lao của họ thường gắn liền với thu nhập của công ty. Theo Nguyễn Thị Phương Dung (2020), thù lao cho các nhà quản lý cấp cao liên quan đến việc trả tiền, cổ phiếu và quyền chọn dựa trên các thước đo hiệu quả hoạt động khác nhau, trong đó hiệu quả có thể bao gồm một sự kết hợp của lợi tức cổ phiếu và lợi nhuận, cũng như một số các thước đo phi tài chính khác.
2.2. Đáp ứng kỳ vọng lợi nhuận của những nhà phân tích
Các doanh nghiệp thường công bố báo cáo tài chính định kỳ (có thể theo quý, theo năm). Trước khi công bố báo cáo tài chính, các nhà phân tích tài chính thường đưa ra dự đoán của họ về lợi nhuận của công ty. Khi báo cáo tài chính chính thức được công bố, công ty có thể được đánh giá là đã "đạt" nếu lợi nhuận của họ tương đương với dự đoán của nhà phân tích hoặc "vượt quá" nếu lợi nhuận cao hơn dự đoán.
Mục tiêu chính của việc đạt hoặc vượt quá kỳ vọng lợi nhuận là tạo ra một ấn tượng tích cực đối với thị trường tài chính, cổ đông, và các nhà đầu tư. Việc công bố kết quả tốt hơn so với dự đoán có thể dẫn đến sự tăng giá cổ phiếu, tăng độ tin cậy cho các nhà đầu tư, và có thể ảnh hưởng tích cực đến hình ảnh và uy tín của công ty. Tuy nhiên, nếu lợi nhuận thấp hơn dự đoán, có thể xảy ra tình trạng ngược lại.
2.3. Tránh vi phạm các điều khoản về các khoản nợ
Trong môi trường kinh doanh khốc liệt như hiện nay, các doanh nghiệp cần phải cân đối vốn để mở rộng kinh doanh hoặc đối mặt với những thách thức tài chính, việc các nhà quản lý quản trị lợi nhuận để đảm bảo tuân thủ nghĩa vụ nợ là một trong những chiến lược quan trọng để bảo vệ lợi ích và ổn định tài chính của doanh nghiệp. Việc vi phạm các điều khoản nghĩa vụ nợ có thể dẫn đến mất quyền lợi từ phía ngân hàng, bao gồm cả việc không cấp thêm vốn, giảm hạn mức tín dụng hoặc thậm chí là chấm dứt hợp đồng tín dụng. Bên cạnh đó nếu doanh nghiệp vi phạm điều khoản nghĩa vụ nợ, ngân hàng có thể áp đặt các biện pháp trừng phạt như tăng lãi suất hoặc đòi hỏi thanh toán ngay lập tức, từ đó tạo ra các áp lực tài chính không mong muốn.
Theo Dichev và Skinner (20020); Franz và cộng sự (2014) chỉ ra rằng việc vi phạm các nghĩa vụ nợ gây ra chi phí trực tiếp và gián tiếp cho các nhà quản lý phải thực hiện quản trị lợi nhuận thông qua kế toán dồn tích và thu nhập thực tế để tránh vi phạm giao ước.
Trong nghiên cứu của mình, S.D. Dyreng và cộng sự (2020) đã nghiên cứu trên bốn nhóm công ty (1) công ty không vi phạm điều khoản về các khoản nợ đồng thời không có hành vi quản trị lợi nhuận, (2) công ty không vi phạm điều khoản nợ và có hành vi quản trị lợi nhuận, (3) công ty vi phạm điều khoản nợ và không có hành vi quản trị lợi nhuận, (4) công ty vi phạm điều khoản nợ và có hành vi quản trị lợi nhuận. Nghiên cứu chỉ ra rằng các cổ đông ở các công ty vi phạm điều khoản nợ sẽ được lợi hơn khi công ty đó thực hiện hành vi quản trị lợi nhuận. Trong khi đó đối với những công ty không có hành vi quản trị lợi nhuận thì việc vi phạm các giao ước nợ sẽ gây thiệt hại cho các cổ đông.
Tuy nhiên cũng có một số nghiên cứu chỉ ra rằng không tìm thấy bằng chứng cho thấy các công ty có hành vi quản trị lợi nhuận trước khi vi phạm hợp đồng vay nợ như trong nghiên cứu của Healy và Palepu (1994) và DeAngelo và Skinner (1994).
2.4. Đáp ứng các chính sách, quy định của nhà nước
Ở nhiều quốc gia, khu vực có các chính sách hoặc các quy định có liên quan đến thu nhập của một số ngành như ngân hàng và bảo hiểm,...và các công ty thuộc các ngành này cần được quản lý thu nhập theo luật, quy định hoặc chính sách của nhà nước đấy ban hành. Những ngành này thường phải tuân theo các yêu cầu để đảm bảo rằng họ có đủ tài sản hoặc vốn để đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của mình (Rahman, Moniruzzaman, & Sharif, 2013).
Theo Healy và Wahlen (1999), một số ngành như ngân hàng và bảo hiểm cần phải đáp ứng các quy định tương ứng có liên quan trực tiếp đến số liệu kế toán, bởi vì ngân hàng thương mại là định chế trung gian thực hiện nhiệm vụ luân chuyển vốn cho nền kinh tế, khuyến khích đầu tư tăng trưởng nội địa (Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, Nguyễn Ngọc Anh Thư, 2021). Cùng với ngành ngân hàng, Petroni (1992) cũng cung cấp bằng chứng chỉ ra rằng công ty bảo hiểm với sự yếu kém về tài chính sẽ rất gần với việc vi phạm các quy định của ngành bảo hiểm, có xu hướng đánh giá thấp dự phòng tổn thất được báo cáo.
Bên cạnh các chính sách đặc thù của từng ngành, nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra thu nhập có mối quan hệ chặt chẽ với thuế. Khi có sự thay đổi trong chính sách thuế sẽ tác động đến hành vi quản trị lợi nhuận của nhà quản trị trong doanh nghiệp (Trường Thùy Vân, 2019). Bên cạnh đó, trong nghiên cứu của mình Marques, Rodrigues và Craig (2011) đã nhận thấy rằng, các công ty có thuế suất thuế thu nhập cao hơn được phát hiện là giảm thu nhập xuống gần như bằng 0 và họ có nhiều khả năng thao túng và quản trị lợi nhuận của mình hơn các công ty khác.
2.5. Giúp doanh nghiệp tránh rơi vào tình trạng khó khăn về mặt tài chính.
Khó khăn tài chính đề cập đến việc một công ty không có khả năng đáp ứng các nghĩa vụ của mình do dòng tiền và khả năng sinh lời kém (Nagar & Sten, 2016). Tuy nhiên, các nhà quản lý trong thời kỳ khó khăn tài chính có động cơ quản trị lợi nhuận để có được nguồn tài chính cần thiết (Rosner & University, 2003), giảm nguy cơ phá sản, tránh vi phạm các hợp đồng nợ, đồng thời cung cấp dự báo rất lạc quan. Mohammad M. Humeedat (2018) đã nghiên cứu các tập đoàn công nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán Amman giai đoạn 2011-2016, thông qua các nghiên cứu thực nghiệm tác giả cung cấp cho người đọc cái nhìn sâu sắc về cách các nhà quản lý của các công ty đang gặp khó khăn có thể tránh được một số tác động tiêu cực của kiệt quệ tài chính bằng cách tham gia vào việc quản lý lợi nhuận.
Trong nghiên cứu mối quan hệ giữa mức độ kiệt quệ tài chính và quản lý lợi nhuận đối với mẫu 150 công ty kiệt quệ tài chính ở Ấn Độ trong giai đoạn từ 2009 đến 2014 của Khushbu Agrawal and Chanchal Chatterjee (2015) chỉ ra rằng công ty có mức độ khó khăn cao hơn sẽ thực hiện quản lý thu nhập thấp hơn. Những phát hiện của nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng đối với người cho vay, nhà đầu tư và nhà quản lý. Động cơ quản lý thu nhập của các công ty gặp khó khăn về tài chính có thể khác nhau tùy thuộc vào mức độ khó khăn. Người cho vay và nhà đầu tư cần phải thận trọng với thực tế là các công ty gặp khó khăn thậm chí ở mức độ thấp cũng có thể có xu hướng che giấu tình trạng tài chính thực sự của mình.
3. Kỹ thuật quản trị lợi nhuận
3.1. Quản trị lợi nhuận dựa trên cơ sở dồn tích
Theo chuẩn mực kế toán quốc tế nói chung và chuẩn mực kế toán Việt Nam nói riêng, khi các đơn vị lập báo cáo tài chính phải lập dựa trên kế toán dồn tích. Theo đó mọi nghiệp vụ kinh tế đều phải được ghi nhận theo thời điểm nghiệp vụ phát sinh, không căn cứ vào việc đã thu tiền, chi tiền hay chưa; nếu thời điểm này được trì hoãn hay tịnh tiến có chủ ý thì có thể làm dịch chuyển thu nhập giữa các thời kỳ. Việc quản trị lợi nhuận dựa trên cơ sở dồn tích ám chỉ tới việc nhà quản lý có thể sử dụng linh hoạt các phương pháp kế toán và chính sách kế toán để thay đổi lợi nhuận mà không thay đổi đến dòng tiền và vẫn đáp ứng được các yêu cầu của quy định kế toán. Theo Ngô Thị Khánh Linh (2023), trên nguyên tắc cơ sở dồn tích, lợi nhuận kế toán được phân tách thành lợi nhuận bằng tiền và lợi nhuận dồn tích, trong đó lợi nhuận bằng tiền tính bằng chênh lệch giữa doanh thu đã thực thu và chi phí đã thực chi bằng tiền, lợi nhuận dồn tích được tính bằng chênh lệch giữa phần doanh thu và chi phí chưa thực thu chi tiền còn lại, nhà quản lý khó có thể tác động tới phần lợi nhuận bằng tiền nhưng có thể vận dụng các phương pháp kế toán hay ước tính kế toán để điều chỉnh phần lợi nhuận dồn tích. Sau đây là một số kỹ thuật quản trị lợi nhuận dựa trên kế toán dồn tích.
3.1.1. Kỹ thuật Cookie Jar Reserve – Dự trữ hũ bánh quy
Kỹ thuật cookie jar reserve – dự trữ hũ bánh quy là tiếng lóng để chỉ khoản dự trữ một khoản lợi nhuận trong những năm thuận lợi nhằm đảm bảo rằng số tiền đó có thể được sử dụng để bù đắp thu nhập kém trong những năm khó khăn. Kỹ thuật quản lý thu nhập này là kết quả của tính linh hoạt của khuôn khổ kế toán. Ban quản lý phải ước tính và ghi lại các nghĩa vụ sẽ được thanh toán trong tương lai do các sự kiện hoặc giao dịch trong năm tài chính hiện tại dựa trên các khoản dồn tích (Rahman, Moniruzzaman, & Sharif, 2013). Tuy nhiên luôn có sự không chắc chắn xung quanh quá trình ước tính vì tương lai không phải lúc nào cũng chắc chắn, chính lỗ hổng này đã giúp các nhà quản lý có cơ hội sử dụng để quản trị lợi nhuận hiện tại và tương lai bằng cách ước tính cao hơn các chi phí được thực hiện trong giai đoạn hiện tại. Nếu và khi chi phí thực tế thấp hơn ước tính, khoản chênh lệch có thể được đưa vào “hũ bánh quy” để sử dụng sau này khi công ty cần tăng thu nhập để đáp ứng dự đoán. Mục đích của thủ thuật nhằm tạo ra lợi nhuận đều đặn cho Công ty qua các năm mà kết quả kinh doanh thực tế rất khác so với báo cáo.Theo Md. Musfiqur Rahman và cộng sự (2012), một số ví dụ về ước tính để quản lý thu nhập là: ước tính nợ phải thu khó đòi, ước tính các khoản giảm giá hàng tồn kho, ước tính chi phí bảo hành, ước tính chi phí lương hưu, chấm dứt kế hoạch lương hưu và ước tính tỷ lệ hoàn thành đối với các hợp đồng dài hạn, v.v . Theo Lenka Strakova (2021), giá trị của hàng tồn kho phải được ghi nhận theo giá trị thuần có thể thực hiện được trong trường hợp giá trị của chúng giảm đáng kể do lỗi thời, hư hỏng hoặc thay đổi giá cả. Doanh nghiệp phải trích lập khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho vào chi phí. Các nhà quản lý đã thông qua quá trình ước tính giá trị hàng tồn kho để thực hiện hành vi quản trị lợi nhuận.
3.1.2. Kỹ thuật Take a big bath
Theo Lenka Strakova (2021), ý nghĩa thực tế của kỹ thuật này nằm ở chỗ nếu công ty nhận thấy lợi nhuận năm nay bị lỗ, công ty sẽ báo cáo một khoản lỗ bổ sung để tạo ra kết quả tài chính tồi tệ hơn, từ đó sẽ tạo ra một bức tranh tốt hơn về tình hình tài chính trong tương lai. (Itoh, 2007) cũng cho rằng kỹ thuật take a big bath là một nỗ lực tăng lợi nhuận báo cáo trong các kỳ tiếp theo bằng cách cho tất cả các khoản mục cho thể vào chi phí của kỳ hiện tại, dẫn đến kết quả kinh doanh của kỳ này bị xấu đi. Theo Kirshenheiter và Melumad (2002), mục đích của “Take a big bath” giúp báo cáo thu nhập của công ty sẽ đều đặn hơn, đồng thời niềm tin của thị trường và các bên liên quan vào ban quản lý sẽ cao hơn, đồng thời thuế thu nhập của doanh nghiệp cũng được dự tính chắc chắn hơn. Kỹ thuật “Take a big bath” thường được sử dụng trong quá trình thay đổi quản lý, trong đó các nhà quản lý mới có thể chuyển giao trách nhiệm về những khoản lỗ lớn cho người tiền nhiệm của họ (Lenka Strakova 2021). Đồng quan điểm Riahi-Belkaoui 2004 cũng cho rằng take a big bath được thực hiện khi công ty thay đổi CEO. Ngoài ra kỹ thuật quản trị lợi nhuận này cũng được sử dụng khi công ty kiếm được một khoản lợi nhuận bất thường lớn, do đó quyết định ghi nhận các khoản chi phí vào kỳ báo cáo hiện tại để có thể ghi nhận ít chi phí hơn trong giai đoạn khó khăn sắp tới (Riahi-Belkaoui, 2004).
3.2. Quản trị lợi nhuận qua quản lý các giao dịch thực tế
Theo Schipper (1898), định nghĩa về quản trị lợi nhuận cần phải bao gồm quản trị lợi nhuận thông qua các giao dịch thực tế. Không giống như quản trị lợi nhuận dựa trên cơ sở dồn tích, quản trị lợi nhuận thông qua các giao dịch thực tế liên quan đến những thay đổi thực tế trong hoạt động kinh doanh, do vậy sẽ ảnh hưởng đến dòng tiền của hiện tại và tương lai. Theo Ngô Thị Khánh Linh (2023), một số cách thức phổ biến để thực hiện quản trị lợi nhuận thực tế bao gồm: thao túng bán hàng, giảm chi tiêu tùy ý, sản xuất thừa, bán tài sản cố định, mua lại cổ phiếu. Ngoài những kỹ thuật trên, tác giả cũng thu thập dữ liệu thứ cấp về một số kỹ thuật quản trị lợi nhuận qua quản lý các giao dịch thực tế:
3.2.1. Big Bet on the Future
Theo David Radoslaw Wróblewski (2016) một công ty mua lại một công ty khác được coi là đã “đặt cược lớn vào tương lại – big bet on the future”. Mojtaba Shayan Nia và cộng sự (2015), cũng đưa ra nhận định các công ty tin rằng việc mua lại một công ty khác là một khoản đầu tư tốt và họ sẽ kiếm được lợi tức đầu tư tích cực. Theo GAAP việc mua lại công ty phải được báo cáo như một giao dịch. Tuy nhiên chính cách tiếp cận này đã giúp nhà quản lý lách qua hai kẽ hở để quản trị lợi nhuận: một là xóa bỏ các chi phí nghiên cứu và phát triển (R&D) ở công ty được mua lại, kỹ thuật này cho phép một phần đáng kể giá mua được khấu trừ vào thu nhập hiện tại trong năm mua lại, điều này có nghĩa là thu nhập trong tương lai sẽ cao hơn so với trước đây; hai là tích hợp lợi nhuận của công ty được mua vào lợi nhuận hợp nhất của công ty từ đó có thể tự động tăng thu nhập nếu công ty con được mua theo các điều kiện có lợi (Rahman, Moniruzzaman, and Sharif, 2013).
3.2.2. Flushing investing portfolio
Các doanh nghiệp có thể mua cổ phiếu của các công ty khác để đầu tư số tiền nhàn rỗi hoặc để đạt được những chiến lược liên minh cụ thể (Lenka Strakova 2021). Normah Omar và cộng sự (2014) cho rằng kỹ thuật này liên quan đến việc nhà quản lý có thể quyết định mục đích nắm giữ, thời điểm bán và ghi giảm các khoản đầu tư bị giảm giá trị. Hầu hết GAAP yêu cầu các khoản đầu tư được phân loại các khoản đầu tư này là chứng khoán kinh doanh hoặc chứng khoán sẵn sàng để bán và mọi giá trị đều được ghi nhận trên báo cáo kết quả kinh doanh. Khoản lỗ hoặc lãi khi bán chứng khoán kinh doanh được ghi nhận vào thu nhập từ hoạt động, mặt khác trong trường hợp có sự thay đổi của giá thị trường và giá của chứng khoán sẵn sàng để bán thì khoản lỗ hoặc lãi sẽ được ghi nhận vào thu nhập toàn diện khác.
Theo Md. Musfiqur Rahman và cộng sự (2012), người quản lý có thể quản lý thu nhập của mình thông qua các kỹ thuật khác nhau, đó là: (1) khi chứng khoán tăng giá, công ty có thể bán và ghi nhận khoản lãi này vào thu nhập nếu cần thiết; (2) khi chứng khoán mất giá, nếu muốn công ty năm nay có thu nhập thấp hơn thì ban quản lý có thể bán chứng khoán và báo cáo khoản lỗ trong thu nhập hoạt động; (3) thay đổi lượng nắm giữ từ chứng khoán sẵn sàng để bán sang chứng khoán kinh doanh và ngược lại, điều này sẽ có tác động chuyển bất kỳ khoản lãi hoặc lỗ chưa thực hiện đối với chứng khoán đó vào hoặc ra khỏi báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
3.2.3. Throw out a problem child
Theo Diana Bachtijeva và Daiva Tamuleviciene (2022), kỹ thuật này được sử dụng khi một công ty con hoặc một chi nhánh hoạt động kém hiệu quả (a problem child) làm giảm thu nhập của công ty mẹ thì sẽ được ban quản lý loại bỏ (throw out) ra khỏi công ty mẹ nhằm cứu vãn hoặc cải thiện kết quả tài chính của công ty mẹ. David Radoslaw Wróblewski (2016) cũng cho rằng khi thu nhập bị kéo xuống bởi một công ty con hoạt động kém hiệu quả và ban quản trị có thể dự báo rằng có thể thu nhập tiếp tục bị kéo xuống thì công ty con có vấn đề sẽ bị loại bỏ. Theo Normah Omar và cộng sự (2014) cho rằng việc loại bỏ có thể được thực hiện theo ba cách: thanh lý hoàn toàn công ty con, tách khỏi công ty con và thành lập một thực thể có mục đích đặc biệt (SPE) để trao đổi tài sản tài chính và vốn cổ phần.
3.2.4. Shrink the ship
Đây là một trong những kỹ thuật quản trị lợi nhuận phổ biến nhất hiện nay. Đó là việc công ty mua lại cổ phiếu của các cổ đông (Lenka Strakova 2021). Theo Md. Musfiqur Rahman và cộng sự (2012) các công ty không phải báo cáo bất kỳ khoản lãi hoặc lỗ nào trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh khi mua lại cổ phiếu của chính mình. Việc mua cổ phiếu không ảnh hưởng đến thu nhập nhưng nó được sử dụng để ảnh hưởng đến thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS). Việc mua lại cổ phiếu cũng làm tăng lợi nhuận trên tài sản (ROA) và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) của công ty do vốn chủ sở hữu và tài sản trong việc mua lại ít hơn (Mojtaba Shayan Nia và cộng sự 2015).
4. Kết luận
Bài viết này đã cung cấp một số tài liệu tổng quan về ý nghĩa, động cơ quản trị lợi nhuận, những động cơ này như: tiền lương, tiền thưởng cho nhà quản lý, đáp ứng kỳ vọng của nhà phân tích, tránh vi phạm các điều khoản về các khoản nợ, đáp ứng các chính sách, quy định của nhà nước và giúp doanh nghiệp tránh vào tình trạng khó khăn về mặt tài chính. Bên cạnh đó, bài viết này cũng trình bày một số nghiên cứu về các cách thức quản trị lợi nhuận thông qua cơ sở dồn tích (bao gồm kỹ thuật Cookie Jar Reserve, Take a big bath) và quản trị lợi nhuận thông qua các giao dịch thực tế (bao gồm kỹ thuật Big bet on the future, Flushing investing portfolio, Throw out a problem child và Shrink the ship). Mặc dù mỗi loại hình doanh nghiệp có những cách thức quản trị lợi nhuận khác nhau, tuy nhiên nghiên cứu này cũng đã cung cấp cho những người sử dụng báo cáo tài chính như các nhà đầu tư, chủ nợ,... và các bên liên quan có những hiểu biết cơ bản về cách thức quản trị lợi nhuận của một công ty để có thể đưa ra những quyết định phù hợp.
Tài liệu tham khảo
Chan, L. H., Chen, K. C., Chen, T. Y., & Yu, Y. (2012). The effects of firminitiated clawback provisions on earnings quality and auditor behavior. Journal of Accounting and Economics, 54(2), 180-196.
Healy, P. M. (1999). Discussion of Earnings-based bonus plans and earnings management by business unit managers. Journal of Accounting and Economics, 26,(1–3), 143-147.
Healy, P. M. & Palepu, K. G. (1990). Earnings and risk changes surrounding primary stock offers. Journal of Accounting Research, 28(1), 25-48.
DeAngelo, H., DeAngelo, L., & Skinner, D. J. (1994). Accounting choice in troubled companies. Journal of Accounting and Economics, 17(1), 113-143.
Dichev, I. D., & Skinner, D. J. (2002). Large–sample evidence on the debt covenant Hypothesis. Journal of Accounting Research, 40(4), 1091–1123.
Franz, D. R., Hassabelnaby, H. R., & Lobo, G. J. (2014). Impact of proximity to debt covenant violation on earnings management. Review of Accounting Studies; New York, 19(1), 473–505.
Scott D. Dyreng , Stephen A. Hillegeist & Fernando Penalva (2020). Earnings Management to
Avoid Debt Covenant Violations and Future Performance. European Accounting Review, 2020
Healy, P. M., and J. M. Wahlen. A Review of Earnings Management Literature and its Implications for Standard Setting, Accounting Horizons, 1999,12:365-283
Rahman, M. M., Moniruzzaman, M., & Sharif, M. J. (2013). Techniques, motives and controls of earnings management. International Journal of Information Technology and Business Management, 11(1), 22-34.
Trương Thùy Vân (2019), nghiên cứu hành vi quản trị lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trong trường hợp thay đổi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp, Taïp chí Khoa hoïc soá 39 (08-2019), 112-120.
Marques, M., L. L. Rodrigues, and R. Craig, 2011, Earnings management induced by tax planning: The case of Portuguese private firms, Journal of International Accounting, Auditing and Taxation Vol. 20, No. 2, 83- 96
Mohammad M. Humeedat (2018). Earnings Management to Avoid Financial Distress and Improve Profitability: Evidence from Jordan, International Business Research; Vol. 11, No. 2; 2018. 222-230
Nagar, N., & Sen, K. (2016). Earnings Management Strategies during Financial Distress. Indian Institute of Management Ahmedabad. Research and Publication, 1-42.
Rosner, R. L., & University, L. I. (2003). Earnings Manipulation in Failing Firms. Contemporary Accounting Research, 20(2), 361-408.
Khushbu Agrawal and Chanchal Chatterjee (2015), Earnings Management and Financial Distress: Evidence from India, Global Business ReviewVolume 16, Issue 5_suppl, October 2015, Pages 140S-154S
Md. Musfiqur Rahman et all (2012), Techniques, Motives and Controls of Earnings Management, International Journal of Information Technology and Business Management, 29th March 2013, 22-34.
Lenka Strakova, (2021). Motives and techniques of earnings management used in a global environment, SHS Web of Conferences 9 2, 0 (2021),
Itoh, K. (2007), Corparate Valuation, Nihon Keizai Shimbun-sha.
Riahi-Belkaoui, A. (2004) Accounting Theory (5th ed.). Great Britian: Thomson.
Krishenheiter, M., & Melumad, N. D. (2002), “Can Big bith and Earning Smoothing Co-exist as Equilibrium Financial reporting Strategies?”. Journal of Accounting Research, 40(3), 761-796.
Diana Bachtijeva, Daiva Tamulevičienė (2022), Comparing earnings management and creative accounting. A general review, Zeszyty Teoretyczne Rachunlowosci, Vol. 46, Nr 2, s. 115-135.
Normah Omar et al. (2014), Management disclosure and earnings management practices in reducing the implication risk, Procedia - Social and Behavioral Sciences 145 ( 2014 ) 88 – 96
David Radoslaw Wróblewski (2016), The complex vision on the earnings management: the evidence from Eastern European countries, Universidad De Zaragoza.
Nguồn tác giả: ThS. Lương Thị Giang - Giảng viên bộ môn Kế toán - Khoa Kế toán & Kinh doanh, Trường Đại học Thủy lợi